Website của Thầy Nguyễn Bá Trình



 

Ngọn lửa bếp vĩnh cửu



 'Tu li, tu li'. Có củi đây rồi!

Người đàn ông trong trại an dưỡng bước ra. Tay bóp môi huýt sáo. Anh ta vừa đi vừa nhặt những que rác trên đường mà anh gọi là củi. Anh ta đi đầu trần, trên người anh là bộ quân phục bạc mầu có nhiều chỗ đã sờn bày cả sợi vải. Lưng mang chiếc ba lô nhét đầy những que rác. Thắt lưng đeo chiếc bình đông, thứ bình đông bằng nhựa mà trẻ con thường bới nước đến trường lúc đi học. Qua cách trang phục anh tự trang bị cho mình người ta đoán, trước khi mắc chứng tâm thần, anh là một người lính.

Trại an dưỡng là nơi tập trung nuôi dưỡng những người bệnh hoạn, phần nhiều là người mắc chứng tâm thần nhẹ, và những người tàn tật sau chiến tranh. Những người không rõ gốc gác và không có thân nhân thừa nhận. Vì vậy mà anh ta tên gì và đến trại trong trường hợp nào cũng ít ai biết. Chỉ thấy sáng sáng khoảng tám giờ, anh bước ra khỏi nhà an dưỡng và bắt đầu một cuộc đi bộ dọc theo đường phố. Anh dùng tay bóp môi dưới tạo thành cái còi và hít vào thật sâu, rồi thổi một hơi dài phát ra tiếng kêu tu li, tu li, y như tiếng con chim tu huýt bằng đất nung mà trẻ con thường thổi. Vừa đi vừa nhặt 'củi'.

Từ đó trẻ con trên đường phố gọi anh là chú Tu Li.

-Chú Tu Li ơi , Củi đây nầy.

Nghe tiếng anh huýt gió từ xa, một cháu gái chạy từ trong nhà ra mang cho anh một que củi nhỏ.

Anh Tu Li nhìn cháu bé cười ngô nghê rồi nói:-Củi! Củi nhiều quá.

Vừa nói anh vừa dừng lại mở chiếc ba lô con cóc ra bỏ que củi vào. Trong ba lô của anh toàn là những que rác anh nhặt dọc đường, có cả những cọng kẽm gai. Anh cẩn thận đặt que củi đứa bé gái vừa cho vào ba lô một cách nhẹ nhàng giống như người ta đặt một cái gì đó dễ vỡ.

'Tu li, tu li' Anh lại bước đi và bắt đầu huýt gió.

Trên đường nhiều đứa bé đã cho anh Tu Li củi. Có đứa nghịch ngợm nhặt một cọng kẽm gai chạy lại:

-Chú Tu Li, củi đây nầy.

-'Tu li… tu li' Củi nhiều quá. Người thương binh lại mở ba lô bỏ khúc kẽm gai vào.

'Ti li, tu li'. Tiếng sáo miệng của anh lanh lảnh trên các đường phố vào những buổi sáng tạo ra một âm thanh thân quen vui vẻ, đối với các đứa trẻ.

 Có một bận, bà hàng xóm để ý thấy cậu bé cạnh nhà mình rất tinh nghịch, cậu bé đã từng đưa cho anh 'Tu li' những cọng kẽm gai sắc nhọn.

Một lần bắt được quả tang bà gọi đứa trẻ lại quở trách giọng nhẹ nhàng:

-Chú ấy đang đi kiếm củi, sao cháu không mang củi ra cho mà lại đưa cọng kẽm gai? Chú ấy bỏ vào ba lô nhỡ móc rách áo quần chú ấy thì sao? Không chừng lại làm rách da chú ấy nữa đấy.

_Chú ấy điên mà cô. Chú có nấu ăn được đâu mà cho củi?

-Chú ấy không điên đâu. Bà hàng xóm nói.

-Không. Chú ấy điên thật cô ạ. Chú ấy ở trên khu an dưỡng cháu biết mà!

-Cô đã nói chú ấy không điên.Chú ấy chỉ lẫn trí thôi.

-Lẫn trí khác với điên sao hở cô?

-Người lẫn trí là người không kiểm soát được trí nhớ của mình. Mọi việc người ấy chỉ nhớ mang máng thôi. Đôi khi đúng sai không phân biệt rõ ràng. Như chú thương binh nầy chẳng hạn. Chú ấy còn biết đi nhặt củi. Nhưng chú lại không phân biệt được cái gì đốt cháy cái gì đốt không cháy. Do vậy mà chú ấy nhận cả cọng kẽm gai mà cháu đưa cho chú ấy. Cháu thấy chú ấy có phải vậy không?

-Còn người điên thì sao hở cô.

- Đó là những người mất hết trí nhớ gần như hoàn toàn.

Đứa trẻ lắc đầu có vẻ không phân biệt được. Bà hàng xóm nhìn cậu bé cười:

-Thôi thì cháu chỉ cần hiểu rằng; với những người như chú ấy, hoặc với người điên đi nữa thì các cháu cũng không được chọc ghẹo mà phải tìm cách giúp đỡ họ. Nói vậy thì cháu hiểu chứ?

Đứa trẻ gật đầu. Nhưng rồi nó lại hỏi:

-Mà sao chú Tu Li không nhặt gì mà chỉ nhặt củi vậy cô? Có lần cháu để que củi dằn trên tờ giấy bạc hai ngàn đồng, đặt ngay trên đường chú ấy đi qua; nhưng chú chỉ nhặt que củi mà không nhặt tờ giấy bạc.

Đứa bé hỏi lần nữa-Sao vậy cô?

Người đàn bà im lặng suy nghĩ một lát rồi trả lời:

-Cô không biết chắc chắn lắm nhưng có lẽ hình ảnh còn sót lại trong trí nhớ mơ hồ của chú ấy là những bếp nấu. Nghĩa là trước khi chú ấy bị một vết thương nào đó làm mất trí nhớ, công việc của chú là nấu ăn. Có thể là như vậy, cô chỉ đoán thôi, và chú ấy đã nhập tâm với công việc của mình. Cũng như cháu vậy, ngày nào cháu say sưa với một trò chơi nào đó thì lúc ngủ cháu cũng mơ thấy cháu chơi trò chơi đó. Có lúc nào cháu gặp trường hợp như thế không?

Đứa bé trả lời một cách thích thú:

-Dạ có. Cháu luôn như vậy.

-Đấy đấy. Cô nghĩ chú ấy cũng đang trong một giấc ngủ mê đấy.

-Vậy thì có lúc nào đó chú ấy tỉnh lại không cô?

-Cô tin là có. Để chú ấy mau tỉnh lại thì mọi người phải thương yêu giúp đỡ cho chú. Cháu phải chọn những que củi nào sạch sẽ, không có gai đem cho chú với những lời nói thật đáng yêu. Chẳng hạn cháu nói với chú ấy rằng- Chú ơi, chú gắng nấu thức ăn cho ngon nhé. Hoặc khen chú- Chú ơi chú nấu thức ăn ngon lắm, ai cũng khen cả.Vậy là chú ấy thấy vui mà mau thoát ra khỏi cơn mê muội. Cháu có làm vậy được không?

-Dạ nhất định cháu làm được, cháu còn giả bộ nhai thức ăn chú ấy nấu một cách ngon lành nữa kia.

Người đàn bà hàng xóm bật cười:

-Cháu ngoan lắm.

 *

Ngừoi đàn bà hàng xóm của ba mẹ cậu bé tên Thanh, năm nay đã trên bốn mươi tuổi, ở tại số nhà 12 đường Nguyễn Huệ. Bà con khối phố vẫn thường gọi là chị Thanh. Chị Thanh có chồng mất tích ngoài mặt trận. Ngày đất nước thống nhất, những người chồng, người cha, người con, người anh… của các gia đình lần lượt trở về. Có người thì trở về nguyên vẹn. Người thì trở về không còn nguyên vẹn. Có người trở về chỉ là một nắm xương. Nhưng tất cả những gia đình đón người thân trở về trong những trường hợp như vậy, chị nghĩ, ai cũng may mắn hơn chị. Bởi chồng chị đã không bao giờ trở về.

-Dù anh ấy trở về chỉ là một nắm xương thì tôi cũng khỏi phải thắc thỏm chờ đợi.

 Chị tâm sự với mọi người như vậy.

Chị nhớ, sau ngày hòa bình một đồng đội của chồng chị đã tìm đến nhà báo tin cho chị rằng chồng chị đã mất tích trong một trẫn đánh vào năm 1974 ở chiến trường Đức Cơ. Với một câu nói mà lúc ấy chị thấy không còn có Trời, không còn có Đất, không còn có loài Người nữa. Câu nói chỉ vẻn vẹn có mấy chữ mà sao ghê gớm đến thế -Đồng đội không tìm được xác anh ấy!

 Trời đâu rồi? Đất đâu rồi? Mọi người ở đâu hết? Sao không ai biết anh ấy ở đâu mà mách bảo giùm tôi?

Vậy mà chị cũng sống đến được bây giờ.

Vào khoảng thời gian khi làn sóng tâm linh nổi lên ào ạt khắp mọi nơi trên một đất nước mà đào ở đâu cũng gặp xác người, chị không tin nhưng mọi người khuyên chị nên tin.. Chị nhờ một nhà ngoại cảm tìm xác chồng. Nhà ngoại cảm đã xác định nơi người chồng của chị ngã xuống, một vị trí núi non trùng điệp thuộc vùng Ba biên giới. Ngày người ta đưa hài cốt chồng chị về chị đã khóc ngất. Nhưng sau khi cải táng anh, chị lại có một cảm giác lạ lùng rằng hài cốt ấy không phải là hài cốt chồng chị. Chị nghĩ rằng chồng mình chưa chết. Nghĩ vậy nhưng chị không nói ra với ai. Lấy ngày bốc mộ làm ngày mất. Vào ngày đó hàng năm chị vẫn cúng giỗ nghiêm túc. Và chị van vái với vong hồn người chết rằng, nếu anh không phải là chồng chị thì cứ xem chị như một người thân trong gia đình. Rồi mấy mùa giỗ qua đi, lòng chị cũng nguôi ngoai dần.

 

 *

'Tu li …tu li....' Người thương binh lại bước ra khỏi trại an dưỡng, vừa đi vừa bóp môi huýt gió. 

 –Củi đây rồi!

Vẫn động tác như mọi khi, anh ta lại nhặt một que rác bỏ vào chiếc ba lô. Những đứa trẻ trên đường phố nghe tiếng huýt gió chúng cũng nhại theo: Tu li, tu li, rồi chạy vào sau bếp nhặt một que củi nhỏ: -Chú Tu Li ơi, củi đây!

Sáng nay trời hơi lạnh. Anh thương binh không mặc bộ đồ trận sờn vai như mọi hôm. Anh mặc một chiếc áo ấm mầu cà phê đã bạc lỗ chỗ từng đám. Đôi mắt mờ đục, nước da hơi xanh tái do khí tiết của những ngày trở đông. Miệng anh luôn mỉm cười, đôi khi cái cười cũng vu vơ, chẳng thể hiện niềm vui hay nỗi buồn. Lâu lâu anh lại cúi xuống nhặt một cái gì đó. Cần mẫn và chịu đựng.

 Có lẽ câu chuyện giữa bà hàng xóm và cậu bé tinh nghịch hôm nọ đã đến tai mấy đứa trẻ khác, nên sau đó chúng không mang cho anh thương binh những cọng kẽm gai hoặc những que rác dơ bẩn. Chúng còn nói về anh bằng những hình tượng thật đẹp đẽ, có lẽ do cha mẹ chúng hay người thân nói cho chúng nghe.

Một đứa bé nói với bạn nó:

-Mầy có biết chú Tu Li nhặt củi để làm gì không?

-Thì chú ấy về nấu ăn chứ còn làm gì nữa.

-Vậy thì bếp của chú ấy đặt ở đâu mầy biết không?

-Ở trung tâm an dưỡng chớ còn ở đâu.

-Sai.

-Vậy thì ở đâu?

-Ở trong trái tim chú ấy.

Đứa trẻ kia phá lên cười như nắc nẻ. Nó nói:

-Bếp mà đặt trong tim thì cháy trái tim mẹ rồi còn gì.

Cậu bé nầy cãi lại:

-Vậy mà không cháy đâu nghe!

-Sao mầy biết?

-Thì chú ấy còn sống sờ sờ ra đó.

Đứa trẻ kia cứng họng. Nó cảm thấy như mình bị mắc lỡm, nó lại phá lên cười, rồi hỏi lại:

-Thôi được.Tao hỏi mầy là sao mầy biết chú ấy đặt bếp trong trái tim chú ấy? Giỏi trả lời đi.

Cậu nầy tỏ ra thành thạo, khi quả quyết như một người lớn:

-Sao lại không biết. Tao còn biết nhiều điều hơn nữa kia.

-Mầy biết gì kể tao nghe thử.

-Chú ấy trước đây là lính nấu ăn.

-Sao nữa mầy kể tiếp đi.

-Chú ấy đi theo đoàn quân. Đoàn quân dừng ở đâu thì chú ấy dựng bếp nấu ăn đó.

-Sao mầy bảo chú ấy đặt bếp trong tim chú ấy? Ha ha ha.

-Chứ sao nữa, tao kể chưa hết mà. Cho đến một hôm đơn vị chú ấy bị địch vây đánh, chú ấy bị một vết thương đâu đó trên đầu. Trước khi bị rơi vào tình trạng lẫn trí, chú đã kịp thời dời cái bếp vào trong trái tim chú ấy. Từ đó chú không quên tiếp tục công việc của mình bằng cách nhóm lửa lên trong trái tim của chú.Và cứ thế ngày ngày chú ấy vẫn đi kiếm củi nấu ăn cho đồng đội.

Đứa bé kia vỗ tay:

-Hay quá ta! Y như chuyện cổ tích thần thoại. Ai kể cho mầy nghe hay dữ vậy?

-Cô Thanh ở cạnh nhà tao kể. Giờ thì mầy đã tin chưa?

 *

 

 Cũng như mọi hôm, anh thương binh đi nhặt củi dọc theo đường Nguyễn Huệ, đến khúc cua rồi tiếp tục đi thêm một đoạn nữa là đến ngôi nhà mang số 12. Anh dừng lại. Anh đâu có biết số nhà, chỉ theo thói quen, đến đó bao giờ anh cũng thấy một lọn củi , gồm mươi que củi nhỏ, sạch sẽ và được tề đầu đuôi gọn gàng, bỏ sẵn trước thềm ngôi nhà. Vậy là anh thương binh bước đến mở ba lô bỏ nắm củi vào. Ba lô đã đầy củi, anh không đi tiếp nữa và miệng cũng không huýt sáo tu li tu li nữa. Anh quầy quả trở về trung tâm an dưỡng một cách vội vã như thể sợ muộn một việc gì đó.

 

Một buổi trưa mùa đông nọ, chị Thanh đi làm về chị thấy nắm củi mình đặt trước hiên buổi sáng vẫn còn nằm yên ở đó. Lòng chị thấy buồn. Nhưng theo thói quen không bỏ được, chị lại đặt thêm vào chỗ ấy một nắm khác, hy vọng trưa hôm sau về nhà chị sẽ không còn thấy lọn củi nào nữa. Nhưng không như chị nghĩ. Đi làm về chưa tới nhà chị đã nhìn trước hiên, vẫn còn hai nắm củi nằm lạnh lẽo ở đó.

Và rồi về sau, cứ thế, mỗi buổi sáng trước hiên nhà chị Thanh lại có thêm một nắm củi.

 Một hôm cùng mùa đông năm ấy, người đi đường không thấy những nắm củi trước hiên nhà chị Thanh nữa. Ngôi nhà số 12 đường Nguyễn Huệ đã khòa cửa. Và cũng từ đó, bọn trẻ con đường Nguyễn Huệ không còn nghe tiếng húyt gió tu li tu li của chú thương binh vào những buổi sáng mùa xuân đẹp trời cũng như những ngày đông lạnh lẽo.

 Người lớn thì chẳng ai để ý gì, họa chăng một lúc nào đó người ta chợt nhận ra và hỏi nhau: Sao mấy hôm nay không thấy người thương binh điên điên tỉnh tỉnh đi nhặt củi nữa nhỉ, chắc anh ta chết rồi. À mà nầy, có ai biết chị Thanh đi đâu không nhỉ. Tự nhiên đang làm việc bên hội Phụ nữ nửa chừng rồi khóa cửa bỏ nhà ra đi.

Thế là câu chuyện về anh thương binh nhặt củi, câu chuyện về những nắm củi đặt trước hiên căn nhà số 12, cùng câu chuyện về cô chủ căn nhà số 12 ấy đột nhiên bỏ đi đâu không ai biết, dần dần đã đi vào quên lãng của mọi người trên đường phố Nguyễn Huệ. Nhất là đám trẻ trên đường phố đó. Thế mà chúng lại mau quên hơn ai cả.

 

 *

Tại bệnh viện thần kinh X125, có một cặp vờ chồng nuôi nhau đã mấy năm nay. Người vợ nuôi người chồng mắc bệnh tâm thần nhẹ. Trong hồ sơ nhập viện người đàn ông mắc bệnh tâm thần, tên là Từ Lí. Theo như người vợ kể lại với mấy người nuôi bệnh, chồng chị là một quân nhân, trong một trận đánh vào cuối tháng hai năm 75 anh bị thương ở đầu và mất trí nhớ từ đó. Người ta chỉ biết vậy thôi, không ai hỏi thêm gì về cặp vợ chồng ấy nữa. Người vợ chừng khoảng trên bốn mươi. Nhìn những đường nét trên mặt người đàn bà, người ta cũng đoán được chị ấy có một thời là cô gái xuân sắc. Bởi một vài nét trên khuôn mặt chị, thời gian đã tỏ ra bất lực hay vị một chút tình riêng nào đó mà không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Thượng đế giao cho: Hãy trừng phạt Adam và Eva bằng cách làm cho nó phải đau khổ khi nhìn thấy khuôn mặt con cháu nó lúc về già phải biến đổi một cách xấu xí! Nhờ vậy mà khuôn mặt người đàn bà dù ở tuổi trên bốn mươi mà vẫn còn giữ được nét khả ái. Còn người chồng thì không ai đoán được tuổi. Cũng không hình dung ra được khuôn mặt người ấy lúc trẻ như thế nào. 

 Phòng điều trị của người chồng thuộc tầng trệt của dãy lầu ba tầng. Nó nằm phía góc trái. Trên sân bệnh viện ngay trước cửa phòng, có một cây đa Ấn độ tỏa nhánh rậm rạp mát mẻ. Hai vợ chồng họ ở chung phòng điều trị với một bệnh nhân là một cậu con trai trạc mười tám, mười chín tuổi, được cả cha mẹ cậu thay nhau chăm sóc. Cậu thanh niên mỗi lần lên cơn động kinh là trốn khỏi bệnh viện, khiến cha mẹ cậu hết sức vất vả tìm kiếm. Có lần phải nhờ cả Công an khu phố tìm giúp.

Nếu chỉ việc người vợ săn sóc nuôi chồng quá chu đáo, thì ở bệnh viện nầy không phải chỉ có một mình chị. Người ta chú ý đến câp vợ chồng nầy bởi cách chìu chồng của người vợ. Chìu chồng một cách quá đáng, người ta nghĩ như vậy. Việc chìu chồng hoặc chìu vợ thì chẳng có gì lạ. Nhưng chìu một người bệnh tâm thần là điều quá khó. Bởi đòi hỏi cùa người bệnh đôi khi hết sức vô lí, ai mà làm theo cho được! Thế mà chị ta làm được những việc khiến ai cũng ngạc nhiên.

Ngoài việc cơm nươc, giặt giũ, nhận thuốc, phân thuốc cho chồng uống hàng ngày, người đàn bà còn đóng vai một người tình như lúc hai người chưa cưới. Buổi sáng, buổi chiều chị quàng vai anh dạo bước trong sân bệnh viện. Có khi chị cùng chồng đi lang thang cùng anh khắp các con đường vắng vẻ quanh bệnh viện. Được cái là anh hiền lành, ngù ngờ như một đứa trẻ. Không la hét, không đập phá cũng không tìm cách trốn khỏi bệnh viện như cậu thanh niên cùng phòng. Có điều là người chồng mắc một chứng ám thị nào đó mà sinh ra thói quen kì cục, là đi đâu cũng mang một chiếc ba lô con cóc sau lưng, vừa đi vừa nhặt những que rác anh ta thấy dọc đường bỏ vào ba lô, miệng mỉm cười nói: Củi nhiều quá.Vậy mà chị không can anh, chị còn nhặt giúp anh những que củi rồi bỏ vào ba lô cho anh. Chị cũng cười:-Nhiều củi quá phải không anh? Người đàn ông gật đâu:-Củi nhiều quá.

Chị bó những nhánh củi nhặt được thành từng lọn nhỏ và xếp ngay ngắn dười gốc cây đa trước cửa phòng, nơi chị dùng làm bếp nấu ăn. Chị đào đất lên và sửa nó lại thành cái bếp loại bếp mà người lính thường dùng trong bước đường chinh chiến.Tối đến chị ngồi cùng anh dười gốc cây lần lượt đôt những bó củi. Ánh lửa lập lòe in hình bóng anh chị lung lình trên mặt đất. Chị hỏi anh:

-Anh có biết bóng của anh là cái nào không?

Người đàn ông chỉ vớ vẩn. Chị cười và chỉ lại cho anh. Sau đó chị hỏi lại. Mấy lần nhưng người đàn ông vẫn chỉ không đúng.

Một đêm khác khi đốt lửa xong chị hỏi:

-Đêm nay anh nấu mấy lon gạo?

Anh cười ngô nghê:

-Ba lon.

Chị lại hỏi:

-Đơn vị anh mấy người mà anh chỉ nấu ba lon?

Anh lại cười ngu ngơ:

-Một người.

Chị phá lên cười:

-Đơn vị chỉ có một người làm sao mà đánh giặc? Mà tiểu đoàn trưởng anh tên gì?

Anh chỉ cười.

Một đêm khác khi đốt lửa lên chị hỏi anh:

-Đốt lửa như thế nầy anh không sợ địch phát hiện sao?

Anh nhìn lên vòm cây đa tối om rồi lắc đầu.

Chị nói:

-Lá đa che kín địch không thấy phải không?

Anh lắc đầu chẳng nói gì. Có lúc chị hỏi tên anh bằng một thứ giọng của cấp trên ra lệnh:

-Hãy báo cáo họ tên, đơn vị và quân số?

Anh hơi hốt hoảng một chút rồi ngồi lặng im.

Những câu chuyện như thế vẫn diễn ra bên ánh lửa lập lòe dưới gốc cây đa trước sân bênh viện, hết đêm nầy đến đêm khác. Thân nhân của những người bệnh đi ngang qua thấy vậy lúc đầu họ lấy làm lạ rồi sau cũng quen dần chẳng ai để ý.

 

 Một buổi sáng chị dậy sớm lúc anh đang ngủ. Chị phải về quê lấy gạo và mang thức ăn lên. Biết tính anh không quậy phá, anh chỉ đi kiếm củi xong là về phòng nằm. Chị gởi anh lại cho cha mẹ cậu thanh niên nhờ nhận thuốc và thức ăn tối cho anh. Sáng mai chị sẽ trở lại.

Tối đó không có chị, như thói quen anh ra ngồi dưới gốc cây đa. Anh mang tất cả những bó củi ra rồi lấy can dầu hỏa mà chị đã dấu dưới hốc cây tưới lên rồi châm lửa. Ngọn lửa lan đến can dầu phát ra một tiếng nổ rồi phụt cháy dữ dội. Anh dùng tay đập. Hai bàn tay anh cháy bỏng, cháy cả tay áo. Nhưng ngọn lửa càng bùng to. Anh hốt hoảng phóng vào phòng trực bệnh viện đập cửa miệng thét lên- Tiểu đoàn trưởng ơi! Cháy to rồi.

Chị y tá trực hốt hoảng vùng dậy, hỏi trong cơn ngái ngủ:

-Cái gì vậy?

Anh la lên:

-Tiểu đoàn trưởng Trung đâu. Có cháy to. Kia kìa.

Anh chỉ tay qua gốc cây đa, ngọn lửa cháy hết dầu đang có vẻ tàn xuống.

Người y tá chợt hiểu, nắm ngay cơ hội:

-Anh tên gì? Đơn vị nào để tôi báo cáo?

-Tôi là Phan Cải, tiểu đoànX. Lúc nấu ăn tôi vô ý để lửa…

Người nữ y tá vui mừng quàng vai anh thương binh và nói:

-Anh bình tĩnh đi anh Phan Cải à. Lửa hết cháy rồi đấy.

 

 *

 

 Chị đi lấy gạo và thức ăn ở quê lên. Mới bước vào cửa bệnh viện thì cô y tá từ phòng trực chạy ra và reo lên:

-Chị Thanh ơi, mừng cho chị, chồng chị đã tỉnh lại rồi.

 

 *

 

 Ngày anh Cải và chị Thanh rời bệnh viện tâm thần, chị Thanh mang một bó hoa cùng anh lên tặng bác sĩ Giám đốc.

 Giám đốc bệnh viện bắt tay chị Thanh vui cười nói:

-Chị là người vợ tuyệt vời nhất đấy chị Thanh ạ. Tôi chúc anh chị sống những ngày còn lại thật hạnh phúc.

Chị Thanh mỉm cười:

-Cảm ơn Bác sĩ Giám đốc. Nhưng anh ấy không phải chồng tôi bác sĩ à.
 

 Tháng Tư / 2005 Nguyễn Bá Trình
ĐANG ONLINE: 3 NGƯỜI